Di sản vô hình của cuộc khủng hoảng châu Âu
- Thứ năm - 27/06/2013 22:51
- In ra
- Đóng cửa sổ này
			Thất nghiệp lan tràn.
		
		
Thất nghiệp lan tràn.
Kỷ niệm năm đầu tiên ngày tốt nghiệp khoa du lịch sinh thái và tiếp cận lịch sử văn hóa, Linnea Borjars vẫn thất nghiệp và đầy thất vọng. Sau khi kết thúc việc học tại đại học Linkoping, Thụy Điển, cô gái 25 tuổi này chấp nhận một vị trí bán thời gian, không lương tại Fair Travel, một nhóm phi lợi nhuận tập trung vào nhân quyền và du lịch, với hy vọng từ đó sẽ dẫn tới một việc làm toàn thời gian và có lương.
Nhưng sự đời lại không như vậy. Khi hợp đồng của cô kết thúc hồi tháng 12 năm ngoái, Borjars từ chối đề nghị ở lại với tư cách thực tập sinh không lương. Từ đó, hàng tá đơn xin việc và những giờ vô tận tìm kiếm trên mạng của cô cũng chỉ nhận được hai cuộc phỏng vấn, cho dù cô có một sơ yếu lý lịch đáng tự hào về thành tích học tập và những kinh nghiệm vất vả mới có được từ quãng thời gian làm thực tập sinh không lương.
Cô chán nản nói với phóng viên Reuters: “Đôi khi tôi cảm thấy mình vô dụng...”. Tình trạng của Borjars là một sự phản chiếu chiều sâu của cuộc khủng hoảng kinh tế châu Âu. Đó không chỉ thể hiện ở tỷ lệ thất nghiệp cao mà còn ở tình trạng sử dụng không hết nhân công - bao gồm những công nhân thừa năng lực, thực tập sinh không được trả lương hoặc lương thấp và những công nhân bán thời gian muốn làm việc toàn thời gian - đã đạt đến các mức nguy ngập ở nhiều quốc gia châu Âu, và có thể để lại một vết hằn tài chính và tâm lý trên một thế hệ.
Các thống kê về thất nghiệp của Liên minh châu Âu không tính đến số sinh viên tốt nghiệp được tuyển dụng vào những vị trí kẹp bánh mì hay phục vụ bán thời gian tại các tiệm cà phê. Nhưng các chuyên gia hiện cho rằng con số người thiếu việc làm đã trở nên quá lớn đến không thể phớt lờ và điều đó đưa ra một mất mát khổng lồ về sản lượng kinh tế tiềm năng.
Để hiểu rõ mức độ thiếu việc làm ở châu Âu trầm trọng đến cỡ nào, hãy xem những con số thống kê sau:
Tháng 12 năm ngoái, 25 triệu trong lực lượng lao động 240 triệu người của EU không có việc làm và vẫn nỗ lực hết sức để kiếm việc, đưa ra một tỷ lệ thất nghiệp là 11%. Thêm 11 triệu người nữa mất việc nhưng không săn việc nữa hoặc tạm thời ngừng làm việc, và vì vậy họ không bị xếp vào hàng thất nghiệp. Nếu cộng thêm họ, tổng số thất nghiệp sẽ vọt lên mức 15%. 
Sau đó còn hơn 9 triệu công nhân bán thời gian muốn làm toàn thời gian nhưng không có cơ hội. Họ được tính là có việc làm nhưng lại cảm thấy thiếu việc. Và cuối cùng, có những người thừa năng lực đối với công việc của họ và lẽ ra có thể kiếm được nhiều tiền hơn ở chỗ khác nếu họ tìm được vị trí hợp với khả năng của mình.
Không có con số cụ thể về số người dư khả năng, nhưng một nghiên cứu công bố năm 2011 của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế đưa ra con số hơn một phần tư trong số tổng lực lượng lao động, với mất mát về sản lượng kinh tế ước tính hàng chục tỷ euro.
Không chỉ mất mát về kinh tế, cuộc khủng hoảng kinh tế châu Âu còn dẫn đến một hệ lụy là làm cho tỷ lệ sinh sản vốn thấp lại càng thấp ở nhiều quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp khổng lồ, gồm cả Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ailen và Cyprus. Các nhà kinh tế nói tình trạng thiếu trẻ sẽ là một nỗi đau nhức nhối dẫn đến thiếu hụt nhân lực trong những thập kỷ tới.