Phát hành trái phiếu trong nước bằng ngoại tệ: Cần rõ ràng hơn
- Thứ sáu - 20/02/2009 21:11
- In ra
- Đóng cửa sổ này
![]() |
Trái phiếu bằng ngoại tệ do có sự bảo lãnh của Chính phủ nên tạo ra hàng hoá chất lượng cao trên TTCK. |
Việc Chính phủ quyết định cho phép phát hành trái phiếu (TP) bằng ngoại tệ trong nước để thu hút ngoại tệ trôi nổi trong nền kinh tế vào thời điểm hiện nay tuy hơi muộn, nhưng rất cần thiết và nên tiến hành thường xuyên cho một nền kinh tế hội nhập mà chưa có đồng tiền tự do chuyển đổi như Việt Nam. Vì vậy, tôi cho rằng, cần phải làm rõ hơn nội hàm về cơ chế, số lượng, loại tiền và giá cả các đợt phát hành loại trái phiếu đặc biệt này.
Trước hết, cần khoanh vùng đối tượng được phép phát hành TP để "vay" ngoại tệ ngay trong nước là ngân sách nhà nước do Bộ trưởng Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ ký phát hành với mục đích bù đắp thiếu hụt ngân sách trong một giới hạn cho phép và phần lớn lượng phát hành TP bằng ngoại tệ này là các tổ chức kinh tế trong nước, có chức năng nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải… và có phương án đầu tư hiệu quả cho các dự án trọng điểm được phát hành theo phương thức có bảo lãnh của Chính phủ. Cả hai loại TP này đều có chất lượng như nhau và được niêm yết trên TTCK.
Đồng tiền phát hành và thanh toán TP bằng ngoại tệ trong nước nên là USD hoặc EURO, hoặc theo cơ cấu tự chọn đồng thời cả hai, vì Việt Nam cần khai thác triệt để lợi thế đang nằm trong khu vực "điểm đến" của các dòng đầu tư và ngoại tệ từ nước ngoài chảy vào. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, giá vốn đang rất rẻ và sẽ rẻ hơn nếu chúng ta chủ động tạo ra một cơ chế cạnh tranh vốn ngoại tệ sẵn có và luôn có trong nền kinh tế. Mặt khác, giá nhập khẩu thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải hiện rất rẻ và Việt Nam rất cần cả hai loại ngoại tệ mạnh nói trên, cũng như "nguồn" ngoại tệ đã, đang và sẽ có trong nước, chủ yếu là USD và EURO.
Tổ chức trúng thầu (gồm cả Kho bạc Nhà nước và tổ chức kinh tế) là tổ chức đủ tiêu chuẩn dự thầu, có phương án khả thi, lộ trình rõ ràng về việc hoàn trả nguyên tệ ghi trên TP đúng hạn.
Đối tượng mua TP cả ở thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là tổ chức, cá nhân cư trú hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
TP bằng ngoại tệ có sự bảo lãnh của Chính phủ nên tạo ra hàng hoá chất lượng cao trên TTCK, góp phần giảm, tiến tới xoá bỏ cơ chế tín dụng ngoại tệ. TP này thuộc danh mục chứng khoán nợ được phép làm vật thế chấp vay vốn ngân hàng thương mại (NHTM), đặc biệt có lợi cho đơn vị xuất khẩu khi có nguồn thu ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi có thể đầu tư, cho đến khi cần nguyên tệ hay nội tệ đều có thể được đáp ứng nhanh chóng thông qua thị trường sơ cấp và/hoặc qua NHTM. TP này cũng là công cụ nhạy bén, tạo điều kiện cho các NHTM trên lãnh thổ Việt Nam được "chạy tiếp sức" một cách có hiệu quả trên TTCK Việt Nam.
Về lượng phát hành và lãi suất trúng thầu: cần tính toán một tỷ trọng hợp lý dựa vào cơ cấu giữa tín dụng ngoại tệ và tín dụng nội tệ đã hình thành mà nay muốn thay thế dần phần tín dụng ngoại tệ bằng TP ngoại tệ và cơ cấu này áp dụng trong tổng giá trị tương đương với tổng giá trị tín dụng trung và dài hạn đến hạn trả nợ trong nước hàng năm. Ví dụ: cơ cấu tín dụng ngoại tệ/tín dụng nội tệ hiện nay (làm tròn) là 25/75, và tổng giá trị dư nợ tín dụng trung và dài hạn (40% tổng dư nợ) đến hạn trả nợ trung bình năm (2,5 vòng/món) là 180.200 tỷ đồng, thì lượng TP bằng ngoại tệ trong nước ước tính có thể huy động ở mức 0,25 x 180.200 = 45.050 tỷ đồng. Nếu dự kiến dành 30% cho TP bằng EURO thì cần huy động 70% tổng giá trị TP ngoại tệ là USD = 0,7 x 45.050 tỷ đồng/17.450 đồng/USD = 1,82 tỷ USD. Còn lại 30% huy động bằng TP mệnh giá EURO sẽ là 0,3 x 45.050 tỷ đồng = 13.515 tỷ đồng, tương đương EURO ở tỷ giá (làm tròn) hiện nay là: 22.500 đồng/EURO = 0,61 tỷ EURO.
Các chỉ tiêu huy động trên đây có thể chia ra thành 2 hoặc 3 đợt phát hành trong một năm, với lãi suất đấu thầu trên thị trường (để ý rằng, 1 USD chi tiêu tại Việt Nam nhờ giá hàng hoá, sinh hoạt rẻ mà có thể tương đương 3 - 3,5 USD chi tiêu ở nước Mỹ, cùng với lạm phát có thể còn cao hơn ở Mỹ nên lãi suất USD trên TP ngoại tệ trong nước cũng cao hơn lãi suất TP cùng kỳ hạn tại Mỹ. Với đồng EURO, cũng có đặc tính khá tương đồng). Mặc dù vậy, việc tính toán mức lãi suất huy động TP bằng ngoại tệ trong nước cần lưu ý tới thế mạnh của kinh tế Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay. Không nên đánh giá quá cao đồng ngoại tệ trong nước, mà nên để thị trường quyết định qua từng đợt phát hành. Tránh tình trạng "khuyến khích" thu hút kiểu huy động tiền gửi ngoại tệ từng xảy ra khi lãi suất của USD và EURO trên thị trường tiền tệ quốc tế giảm mạnh như hồi cuối năm 2008 (và cả hiện nay) thì tại Việt Nam, lãi suất huy động và cho vay USD thường có xu hướng gia tăng trong thời gian dài. Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng ngoại tệ, đặc biệt là loại tín dụng ngoại tệ ngắn hạn; nhiều nước cấm việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trong nước bằng ngoại tệ... Ở Việt Nam, tình trạng đôla hoá cao đã xảy ra, nhớ lại năm 2008 khi lạm phát bùng nổ thì ngoại tệ "lên ngôi" ngay cả khi chính nó đang bị mất giá ở "quê nhà". Điều này làm cho giá vốn ngoại tệ (lãi suất huy động và cho vay) có tốc độ tăng ngay cả khi giá của bản thân nó là tỷ giá sụt giảm. Đây là một trong những nghịch lý về ngoại hối. Do đó, ở Việt Nam cần sớm hình thành cơ chế mua đứt bán đoạn, thay cho cơ chế tín dụng ngoại tệ... Cùng với việc hình thành môi trường ngoại tệ mới này, cần tạo cơ chế phát triển mạnh thị trường ngoại hối kèm theo việc kiểm soát chặt các hoạt động đôla hoá, trong đó bao gồm cả việc phát triển mạnh giao dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ trước biến động rủi ro về tỷ giá. Tỷ giá phải được coi là một phạm trù giá cả trên thị trường ngoại hối để làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ theo quy luật của nó. Tỷ giá về căn bản không phải là một công cụ của chính sách tiền tệ, mà cao hơn, nó là đối tượng của chính sách ngoại hối của Nhà nước. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho chủ trương phát hành TP bằng ngoại tệ trong nước thành công, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần đề xuất cơ chế kiểm soát và nghiêm cấm việc tự do bán, thanh toán ngoại tệ của cá nhân, đại lý ngoài NHTM. Theo đó, trong nền kinh tế chỉ có 3 đối tượng được mua ngoại tệ tại ngân hàng: người nhập khẩu; người cư trú ra nước ngoài hoặc đầu tư ra nước ngoài theo giấy phép; người không cư trú chuyển lợi nhuận hoặc rút tiền của mình về nước. Việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân thủ nguyên tắc: chỉ tiêu tiền Việt Nam. NHNN cũng cần có cơ chế giám sát chặt chẽ việc xuất, nhập khẩu và buôn bán vàng thỏi trên thị trường vàng để giảm tối thiểu việc các dòng vốn chạy "lòng vòng" trên lưng nhau trong thị trường tài chính, mà không đi vào đầu tư tạo ra hàng hoá, dịch vụ thiết yếu cho xã hội.
Với nội hàm về cơ chế, số lượng, loại tiền và giá cả hợp lý cho sự xuất hiện một "hàng hoá" mới trên thị trường tài chính Việt Nam như phân tích và đề xuất ở trên, có thể tin tưởng rằng, không chỉ chủ trương phát hành TP bằng ngoại tệ trong nước thành công, mà tình trạng đôla hoá cũng giảm dần, TTCK cũng được bổ sung thường xuyên một nhóm hàng hoá mới, chất lượng cao, phù hợp với nền kinh tế mở cửa, hội nhập của Việt Nam.