![]() |
Nhiều ý kiến lo lắng về quy định khống chế tổng mức vốn huy động của công ty nhà nước trong phạm vi hệ số nợ phải trả trên vốn điều lệ không vượt quá 3 lần. |
Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác kèm theo Nghị định số 09/2009/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành ngày 5/2/2009 và có hiệu lực từ ngày 25/3/2009. Đây là nghị định thay thế và có thể nói đã giải quyết cơ bản những vướng mắc nảy sinh sau hơn 4 năm thực hiện Nghị định số 199/2004/NĐ-CP; tuy nhiên, mặc dù mới ban hành nhưng Nghị định 09 đã phát sinh một số điểm cần tiếp tục được nghiên cứu xử lý.
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 12 của Quy chế mới, công ty nhà nước phải thực hiện điều chỉnh lại mức đầu tư trên nguyên tắc bảo toàn vốn trong khoảng thời gian 2 năm kể từ ngày 25/3/2009 (thời điểm Nghị định 09 chính thức có hiệu lực) đối với hoạt động đầu tư góp vốn vượt quá quy định vào các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán và phải thoái vốn đã góp hoặc đã mua tại quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư chứng khoán hoặc công ty đầu tư chứng khoán.
Tuy nhiên, quy định việc khống chế tổng mức đầu tư đối với ngành nghề kinh doanh chính hiện nay chưa rõ ràng, ngay như trong quyết định thành lập của các công ty mẹ - tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cũng không có quy định về ngành nghề kinh doanh chính, các ngành nghề kinh doanh nhạy cảm được xác định như các ngành nghề kinh doanh khác, nên việc xác định để điều chỉnh sẽ gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, TTCK tiếp tục ảm đạm, nếu thực hiện điều chỉnh thông qua chuyển nhượng phần vốn hoặc bán cổ phần thì mục tiêu bảo toàn vốn nhà nước là rất khó thực hiện, vì giá trị cổ phần tại các lĩnh vực trên đều đã sụt giảm rất lớn so với thời điểm đầu tư.
Ngoài ra, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì từ ngày 1/7/2010 Luật Doanh nghiệp nhà nước sẽ hết hiệu lực thi hành, mà Nghị định số 09/2009/NĐ-CP được ban hành căn cứ vào Luật Doanh nghiệp nhà nước nên chỉ còn hơn 1 năm nữa thì Nghị định này cũng hết hiệu lực, vậy vấn đề đặt ra ở đây là sau khi Nghị định 09 hết hiệu lực thì thời hiệu cho quy định 2 năm phải thực hiện điều chỉnh còn tiếp tục có hiệu lực, trường hợp các công ty nhà nước đến năm thứ 2 không thực hiện điều chỉnh trong khi nghị định này hết hiệu lực thì có vi phạm pháp luật hay không?
Thứ hai là quy định khống chế tổng mức vốn huy động của công ty nhà nước trong phạm vi hệ số nợ phải trả trên vốn điều lệ không vượt quá 3 lần, trường hợp có nhu cầu vay vốn vượt quá 3 lần thì phải báo cáo đại diện chủ sở hữu xem xét quyết định trên cơ sở các dự án huy động vốn có hiệu quả. Điều này sẽ dẫn đến việc hạn chế tính chủ động, hạn chế hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty nhà nước và không phù hợp với thực tế hiện nay, khi mà các công ty nhà nước thường có vốn điều lệ thấp, để phát triển sản xuất - kinh doanh, các công ty phải huy động các nguồn vốn khác, nếu cứ chờ cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét quyết định mới được thực hiện thì sẽ mất cơ hội kinh doanh. Đặc biệt, đối với những ngành có suất đầu tư lớn như ngành xây dựng, một dự án thường có giá trị vốn đầu tư lớn, vài trăm đến vài ngàn tỷ đồng, trong khi vốn điều lệ tại các công ty thuộc ngành xây dựng thường rất thấp, nên thường phải huy động một lượng vốn lớn để thực hiện dự án; nếu cứ phải trình cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định thì thời gian sẽ kéo dài, làm chậm tiến độ thực hiện dự án và gây lãng phí về thời gian, tiền bạc của công ty nhà nước, nhiều cơ hội kinh doanh và uy tín của công ty nhà nước sẽ bị ảnh hưởng.
Thứ ba, quy chế mới có quy định điều tiết một phần lợi nhuận sau thuế (phần lợi nhuận được chia theo vốn nhà nước và quỹ đầu tư phát triển) về Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) đối với công ty nhà nước đã được đầu tư đủ vốn điều lệ. Ví dụ: Tổng công ty A có vốn điều lệ là 2.500 tỷ đồng (đã cấp đủ vốn), vốn huy động là 10.000 tỷ đồng. Trong năm 2009, lợi nhuận sau thuế là 500 tỷ đồng thì phần lợi nhuận phải phân phối như sau: trích 10% cho quỹ dự phòng tài chính là 50 tỷ đồng, còn 450 tỷ đồng phải phân chia theo tỷ lệ vốn nhà nước là 90 tỷ đồng và vốn tự huy động là 360 tỷ đồng. Số tiền 90 tỷ đồng sẽ phải nộp về Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại SCIC, do Tổng công ty A đã được cấp đủ vốn điều lệ.
Quy định này có thể sẽ làm giảm động lực kinh doanh của công ty nhà nước, do bị thu một phần nguồn vốn được tạo ra từ lợi nhuận và thành quả làm việc của công ty, trong khi các công ty này vẫn phải đi huy động vốn từ bên ngoài với lãi suất thương mại để phục vụ sản xuất - kinh doanh; đồng thời, hiện nay việc điều chỉnh tăng vốn điều lệ cho tương ứng với hoạt động kinh doanh của công ty nhà nước thường mất nhiều thời gian, qua nhiều cấp phê duyệt. Ngoài ra, với quy định này, có thể xảy ra hiện tượng "lách luật" bằng cách cuối quý vay tiền ngân hàng và đầu quý sau trả để giảm tỷ lệ phân phối lợi nhuận cho phần vốn nhà nước đầu tư, điều này cũng dẫn đến làm lãng phí nguồn lực tài chính do phải trả thêm các khoản chi phí vốn bất hợp lý.
Chính vì vậy, nên chăng có những điều tiết hợp lý hơn đối với phần lợi nhuận được chia theo vốn nhà nước, ví dụ có thể trích một tỷ lệ phần trăm nhất định từ khoản này để lại cho công ty nhà nước thì sẽ hợp lý hơn.