Ông có nhận xét gì về tình hình lạm phát năm nay so với các năm trước? Nguyên nhân gây ra lạm phát cũng đã được đề cập nhiều, song theo ông có những điểm nào cần chú ý từ góc độ quản lý điều hành thị trường?
Nếu như lạm phát năm nay đạt mức 2 con số, vào khoảng 11-12%/năm như dự đoán của Tổ điều hành thị trường trong nước tại cuộc họp tuần qua thì đây là con số cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây.
Cá nhân tôi cho rằng,một nguyên nhân lớn gây ra tốc độ phi mã của lạm phát xuất phát từ tác động giá thế giới, nhưng VN chưa tìm được cách ứng xử phù hợp. Điều hành giá cả của VN vẫn theo tư duy cũ mà chưa theo nguyên tắc thị trường. Đơn cử như mặt hàng xăng dầu, trước đây Nhà nước đưa ra quan điểm mở cửa nhưng chỉ mở đầu ra, còn đầu nhập khẩu thì chưa, vẫn duy trì 10 đầu mối, khi điều chỉnh giá theo thị trường không ổnthì lại quay về chính sách bù lỗ, khi bù lỗ không chịu được lại quay lại tăng giá. Hay đơn cử như hạn chế doanh nghiệp tăng giá bằng biện pháp đi kiểm tra giá bán hàng của DN, thật khó có thể can thiệp hành chính vào thị trường như vậy, mà cần điều chỉnh bằng chính sách hợp lý hơn.
Một nguyên nhân nữa là điều hành chính sách tiền tệ không linh hoạt, trong khi trên thế giới đồng USD mất giá thì tại VN vẫn duy trì chính sách giữ ổn định tỷ giá, giữ nguyên lãi suất cơ bản tiền đồng, trong khi vốn nước ngoài đổ vào VN nhiều thì những chính sách như vậy khiến VN trở thành điểm trũng đầu tư. Tuy nhiên, do không dự báo sát diễn biến nên chúng ta chưa có những chính sách tốt để hấp thụ nguồn vốn đó. Kết quả là nếu như 6 tháng đầu năm Ngân hàng NNtung VNĐ ra mua USD để tăng dự trữ thì thời điểm này việc hạn chế mua USD vào lại đẩy thị trường vào cơn sốt căng thẳng về lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Với TTCK, tác động của lạm phát sẽ thế nào?
Có thể nhìn nhận ở hai yếu tố tích cực và tiêu cực. Về mặt tiêu cực, lạm phát cao có thể tác động đến chính sách tiền tệ, để hút bớt tiền khỏi lưu thông Ngân hàng NH có thể thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ, tăng lãi suất cơ bản hay đơn cử như thi hành Chỉ thị 03, như vậy có thể gián tiếp cản luồng vốn vào chứng khoán. Ở góc độ doanh nghiệp, khi lạm phát cao, DN có lợi là tăng giá sản phẩm nhưng khi lạm phát tăng quá cao, những nguyên liệu đầu vào tăng giá mạnh, và có thể lãi suất ngân hàng tăng cao sẽ có tác động không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng của bản thân DN và kết quả kinh doanh có thể bị ảnh hưởng. Một yếu tố tiêu cực nữa là khi lạm phát cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế thì rõ ràng tăng trưởng cao cũng không còn mấy ý nghĩa và sức hấp dẫn về yếu tố vĩ mô đối với NĐT bị suy giảm.
Tuy nhiên, về mặt tích cực, do lạm phát cao nắm VNĐ không có giá trị nên các NĐT có xu hướng chối bỏ nắm giữ tiền và đẩy sang các tài sản khác như bất động sản, vàng, ngoại tệ, USD. Tuy nhiên, diễn biến của những kênh đầu tư này cũng không mấy thuận lợi. Chẳng hạn BĐS sốt giá, vàng bấp bênh, giá ngoại tệ thấp nên NĐT có xu hướng đổ sang đầu tư chứng khoán và giấy tờ có giá. Đây có thể là một lý do giúp TTCK tăng cầu.
Như ông phân tích thì rõ ràng đầu tư vào chứng khoán cũng vẫn là một kênh hấp dẫn?
Đầu tư chứng khoán cũng không dễdàng như năm 2006, vì ngoài lãi NĐT còn phải bảo toàn vốn. Và thực chất với tốc độ lạm phát 12% chẳng hạn, nếu NĐT lãi 10% thì coi như họ vẫn lỗ.Song năm 2007 là năm lãi suất ngân hàng thực âm, tức lãi suất các NHTM thấp hơn mức lạm phát, người gửi tiền tiết kiệm bị thiệt thòi lớn nên kênh này hầu như không hấp dẫn đối với những người biết đầu tư.
Để chống lạm phát, Nhà nước có thể nghĩ đến việc phát triển các thị trường khác như chứng khoán, bất động sản để người dân đem tiền đầu tư vào những kênh đó, tức là hút bớt tiền khỏi lưu thông. Để NĐT có thêm sự lựa chọn, trong bối cảnh hiện nay Nhà nước nên tung thêm hàng hóa có giá trị ra TTCK, nhất là CP của những DN lớn thông qua những đợt IPO cũng như cung hàng cho niêm yết.
Cá nhân tôi thấy rằng, có thể tính đến cả giải pháp phát hành trái phiếu trong nước và tạo ra thị trường giao dịch sôi động để hút ngoại tệ và lượng tiền dư thừa.