![]() |
Nhiều DN đã dự trữ khá nhiều nguyên vật liệu vào những tháng cuối năm 2008. |
Vào những tháng cuối năm 2008, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, giá của hầu hết nguyên vật liệu giảm mạnh, ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp sản xuất. Đặc biệt là các doanh nghiệp do lo sợ giá nguyên liệu vật tư tăng nhanh như các tháng đầu năm 2008 nên đã dự trữ khá nhiều nguyên vật liệu vào những tháng cuối năm và hệ quả là phải trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho khá lớn.
Vấn đề không có gì đáng bàn nếu năm 2009 này giá nguyên liệu, vật tư bình ổn trở lại và cuối năm doanh nghiệp không phải trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho cho năm 2009. Như vậy, khoản dự phòng của năm 2008 sẽ được hoàn nhập, nhưng vấn đề này lại không đơn giản như bản chất vốn có của nó.
Mâu thuẫn khi hoàn nhập dự phòng
Mâu thuẫn nảy sinh khi các doanh nghiệp đang trích lập dự phòng này có mức thuế suất thuế ưu đãi 10%, 15%, 20%, tức là thấp hơn so với mức thuế suất thuế thu nhập chung cho các doanh nghiệp là 25% theo Thông tư 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, vì theo Thông tư 130, khoản hoàn nhập dự phòng này được xem là "thu nhập khác". Cụ thể, Khoản 7, Mục V, Phần C Thông tư 130 quy định một trong các khoản "thu nhập khác" là "hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính, dự phòng nợ khó đòi và hoàn nhập khoản dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp đã trích nhưng hết thời gian trích lập không sử dụng hoặc sử dụng không hết". Cũng theo quy định của Thông tư 130 thì "thu nhập khác" không được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Cụ thể, Khoản 2.6, Mục I, Phần H quy định, việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp không áp dụng đối với "các khoản thu nhập khác quy định tại Mục V, Phần C, Thông tư này".
Như vậy, khoản hoàn nhập dự phòng của doanh nghiệp sẽ được xem là "thu nhập khác" và phải chịu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%, tức là không áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ví dụ: Một doanh nghiệp năm 2008 có lãi trước thuế là 100 tỷ đồng, chưa trích lập dự phòng. Số dự phòng giảm giá cho hàng tồn kho phải trích lập là 30 tỷ đồng. Như vậy, lãi trước thuế của doanh nghiệp sẽ là 70 tỷ đồng.
Nếu không trích lập dự phòng 30 tỷ đồng thì tiền thuế phải nộp cho khoản lợi nhuận này là: 30 tỷ đồng x 15% = 4,5 tỷ đồng (giả sử doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 15%). Nếu trích lập dự phòng, qua năm 2009 doanh nghiệp đó phải nộp thuế cho khoản lợi nhuận này là: 30 tỷ đồng x 25% = 7,5 tỷ đồng (doanh nghiệp không được áp dụng thuế suất ưu đãi 15%, mà phải áp dụng thuế suất chung là 25%). Số tiền thuế phải nộp thêm là: 7,5 - 4,5 = 3 tỷ đồng. Khoản nộp thuế thêm sẽ lớn hơn nếu như khoản trích lập dự phòng lớn hơn và chênh lệch của mức thuế suất ưu đãi và không ưu đãi lớn hơn.
Giải quyết thế nào?
Thiết nghĩ, việc Thông tư 130 xác định "thu nhập khác" bao hàm cả các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho là không hợp lý, vì bản chất của nó là từ hoạt động sản xuất - kinh doanh chính, điều này dẫn đến hai hệ quả:
- Các doanh nghiệp không muốn trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho cho năm 2008 vì sẽ phải nộp thêm tiền thuế vào năm 2009.
- Các công ty kiểm toán không thể chấp nhận báo cáo tài chính của doanh nghiệp nếu không trích lập dự phòng vì không phản ánh trung thực tình hình giảm giá nguyên vật liệu. Thế nhưng, công ty kiểm toán không thể trả lời việc sau khi trích, doanh nghiệp vì phải phản ánh trung thực tình hình tài chính cho năm 2008 mà phải nộp thêm thuế thu nhập cho năm 2009!?
Vì vậy, ngay từ bây giờ, doanh nghiệp đã trích lập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho khá lớn cho năm 2008 mà hiện tại đang có thuế suất ưu đãi thấp hơn thuế suất 25% phải kiến nghị ngay lên Bộ Tài chính để có chính sách phù hợp hơn cho trường hợp này.
|