Ngày 4.6 tại Hà Nội, hội Luật gia Việt Nam đã tổ chức hội thảo: “Luật trưng cầu dân ý: những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Theo ông Phạm Quốc Anh, chủ tịch hội Luật gia Việt Nam – đơn vị được giao chủ trì soạn thảo bộ luật này, dự thảo luật trưng cầu dân ý được dựa trên “bộ khung” từ năm 2005, nhưng có chỉnh sửa, đổi mới và sắp tới sẽ được đưa ra lấy ý kiến rộng rãi để kịp trình Quốc hội vào tháng 10.2014.
Trước đó, dự luật cũng phải trình uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến. Tại hội thảo, giáo sư Đào Trí Úc (đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết trưng cầu dân ý là một chế định xã hội có cùng tính chất với điều tra dư luận xã hội, nhưng ở mức độ cao hơn nhiều. Đây là hình thức lấy ý kiến nhân dân đối với những vấn đề hệ trọng của đất nước, hoặc của từng địa phương thông qua hình thức bỏ phiếu trực tiếp.
Theo tiến sĩ Vũ Đức Khiển, nguyên chủ nhiệm uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, Hiến pháp và pháp luật hiện hành đã có những điều ghi nhận về việc trưng cầu ý dân và lấy ý kiến nhân dân. Đây là hai hình thức hoạt động của các cơ quan nhà nước có mục đích, yêu cầu gần giống nhau, nhưng cách thức tiến hành lại hoàn toàn khác nhau. Ông Khiển cho biết, qua theo dõi “Báo cáo về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở những ý kiến của nhân dân” trình Quốc hội tại kỳ họp đang diễn ra, ông nhận thấy nhiều nội dung không được giải trình hết, hoặc không đầy đủ ý kiến đóng góp của nhân dân. Có khoảng 20 nội dung trong bản dự thảo được “giữ nguyên” hoặc khẳng định là “hợp lý”. “Đây chính là biểu hiện rõ nét nhất sự khác biệt cơ bản giữa việc lấy ý kiến nhân dân với việc trưng cầu ý dân”, ông Khiển nói.
Theo ông Khiển, khi đã đưa ra một vấn đề để trưng cầu ý dân thì các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể chỉ có nhiệm vụ tổ chức thực hiện như là bộ máy thư ký giúp việc cho cử tri và kiểm phiếu, công bố kết quả chứ không phải là cơ quan tổng hợp, tập hợp ý kiến của cử tri để nghiên cứu, tiếp thu, giải trình, chỉnh lý, càng không có quyền bảo lưu ý kiến của mình.