Đã bao lần, tôi cứ thắc mắc về cái chuẩn mực công bố thông tin giữa "Tây" và "Ta". Cũng chẳng phải người viết thích "hướng ngoại", nhưng cứ mỗi lần nghe đồng nghiệp bàn về sự khác biệt giữa chuẩn mực này với chuẩn mực khác, tôi lại cảm thấy, giá như DN của Việt Nam "Tây" hơn một chút thì tốt biết bao.
Vâng, cái "Tây" người viết muốn đề cập ở đây liên quan đến một thứ, mà người nước ngoài gọi là "MD&A" (tạm dịch là "Thảo luận và phân tích của ban lãnh đạo"). Nghe thì cũng chẳng có gì là xa lạ, nhất là khi chúng ta xem tài liệu mang tên báo cáo của HĐQT, báo cáo của ban giám đốc DN Việt Nam được trình bày đẹp đẽ trong báo cáo thường niên. Và sự tương đồng lại càng rõ nét hơn khi tiêu chuẩn thông tin trong báo cáo của "Ta" cũng chẳng khác "Tây" là mấy. Có chăng, sự khác biệt chỉ là nội dung và ý thức trình bày…
Với một báo cáo của HĐQT, ban giám đốc dài khoảng 2 trang, không hiểu NĐT tìm thấy thông tin gì trong việc lãnh đạo DN đánh giá những kết quả đạt được trong quá khứ, những con số tài chính cần được giải thích thêm? Chưa kể, trong mỗi báo cáo này, lãnh đạo không ít DN đưa ra chiến lược, mục tiêu theo kiểu "tầm nhìn", "ước vọng" một cách chung chung, mà không giải thích bằng những cơ sở lý luận thuyết phục… Cả 5 nội dung cần có trong mỗi bản MD&A được Ủy ban Tư vấn các chuẩn mực kế toán liên bang Mỹ (FASB) quy định từ năm 1999 đều được thể hiện trên các báo cáo của DN Việt Nam, nhưng có lẽ, không NĐT nào đọc các báo cáo này mà đánh giá được DN đang hoặc sắp chịu rủi ro gì? Tác động của rủi ro đến kết quả kinh doanh và hoạt động của DN ra sao?
Thống kê của 2 nhà nghiên cứu Rodney K.Rogers và Julian Grant công bố năm 1997 cho thấy, 31% thông tin phân tích được lấy từ bản MD&A và 12% thông tin từ thư của chủ tịch HĐQT, chỉ 26% thông tin lấy từ các báo cáo tài chính. Điều này cho thấy tầm quan trọng của báo cáo từ ban lãnh đạo DN, điều mà không ít DN Việt Nam hiện nay vẫn chỉ cho đó là hình thức!
Cuối năm 2008, nhiều DN đã than phiền rằng, nếu cơ quan quản lý có động thái để DN có thể biết trước những phản ứng về hướng điều hành chính sách tiền tệ theo kiểu với trường hợp A thì sẽ phản ứng thế này, trường hợp B thì phản ứng thế kia…, thì đâu đến nỗi nhiều DN rơi vào tình trạng khóc dở, mếu dở như hiện nay? Và với lãnh đạo DN, nếu có thể đưa ra những dự báo tốt hơn, lượng hóa cụ thể hơn tác động từ thay đổi các yếu tố bên trong, bên ngoài… thì NĐT đâu đến nỗi phải sốc khi kết quả kinh doanh cuối năm khác kế hoạch một dấu "trừ"?